Nhạc sĩ Lê Thương và trường ca trứ danh Hòn vọng phu
Hòn vọng phu là trường ca trứ danh do nhạc sĩ Lê Thương sáng tác từ năm 1943 đến 1947. Đây là một trong những bản nhạc mang tính trường ca đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam.
Hoàn cảnh sáng tác[1]
Lê Thương nghiền ngẫm đề tài người chinh phụ từ lâu trước khi sáng tác. Nhạc sĩ đọc thuộc Chinh phụ ngâm, cả nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản dịch chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm. Tiếp theo, ông bắt gặp nhiều hình tượng người chinh phụ ngoài đời thực. Nàng Tô Thị bồng con chờ chồng đến nỗi hóa thành đá ở Lạng Sơn, người chinh phụ trên núi Đá Bia, ở Phú Yên, phía đông đèo Cả, thậm chí là cả Vọng phu thạch ở Trung Quốc (khi ông vượt qua biên giới Việt–Trung). Tất cả những hình tượng này đều khiến Lê Thương đưa ra một chiêm nghiệm: dù ở phương trời nào, chiến tranh gây ra nỗi đau đè nặng lên người phụ nữ. Cảm xúc đó đã khiến nhạc sĩ xúc động sâu sắc để viết bộ ba bài hát Hòn vọng phu
Nội dung
Hòn vọng phu nguyên là sự tích buồn nổi tiếng trong dân gian:
Hai anh em ruột gặp nạn xa nhau, về sau gặp lại không biết đấy là anh em. Họ yêu nhau, cưới nhau làm vợ chồng rồi sinh ra một đứa con. Một hôm, người chồng nhìn thấy dấu ấn trên mình người vợ, nhận ra đó là em gái mình. Đau đớn quá, người chồng từ biệt vợ ra đi. Người vợ thì không biết chuyện đó, cứ tưởng chồng đi làm vài ngày rồi sẽ về, nhưng chờ mãi vẫn không thấy. Vài tháng, vài năm, bà vẫn trên đỉnh núi ôm con đứng đợi. Cho đến rất lâu sau, người ta thấy nơi đó một hòn đá hướng ra vùng trời xa thẳm. Đó chính là người vợ bồng con đã hóa đá vì chờ chồng. Về sau, người chồng vô cùng đau khổ và hối hận, bèn quay về, hôn người vợ thắm thiết. Người vợ từ đá trở về hình người, và 2 người sống hạnh phúc mãi về sau.
Hòn vọng phu trong sự tích này chính là đá Vọng Phu tại Đồng Đăng, Lạng Sơn. Đá đã bị sụp đổ vào năm 1991.
Tuy nhiên, hòn vọng phu trong tác phẩm của Lê Thương lại có nội dung khác. Cũng với câu chuyện về người vợ chờ chồng đến hóa đá, Lê Thương đã xây dựng nên câu chuyện khiến ai đã một lần nghe qua đều xúc động.
Trong trường ca này, Lê Thương đã sử dụng nhuần nhuyễn âm giai ngũ cung của Việt Nam phối hợp với tiết điệu Tây phương để kể về mối tình chia cắt của người chồng và người vợ do chiến tranh loạn lạc.
Khi chiến tranh nổ ra, người chồng theo lệnh vua tòng quân với lời hẹn ước chỉ một thời gian sẽ trở về. Hai vợ chồng, “người đi ngoài vạn lý quan san, người đứng chờ trong bóng cô đơn.” (phần 1)
Thời gian cứ bằng bẵng trôi. Người vợ chờ đợi mãi vẫn không thấy chồng trở về. Chiều nào nàng cũng bồng con ra ngóng tin chồng; vết chân nàng đi dần hằn sâu trên phiến đá. Cỏ cây, hoa lá, sông núi, nước non,… cả đất trời đều thương cảm cho nàng, đều giúp nàng ngóng tìm chồng, “xem chàng về hay chưa”. Ngóng trông mãi đến lúc tất cả đều khuyên nàng đừng chờ đợi nữa, hãy “trở về chớ đừng để xuân tàn”. Thế nhưng, nàng vẫn chờ, chờ mãi nơi ấy. Nước mưa, bụi thời gian tuôn xối xả lên nàng, “thấm vào đến tận tâm hồn đứa con”. Ngày tháng dần trôi, nàng và con dần hóa đá vì chờ chồng. (phần 2)
Người chồng – sau khi vượt qua biết bao gian khổ, hiểm nguy – cuối cùng đã thực hiện được lời hứa là trở về với nàng nhưng đã quá muộn. Nàng đã không còn để gặp chồng, chỉ còn “vết bước đi trên phiến đá mòn còn in dấu” và nỗi tiếc thương lưu truyền mãi đến muôn đời sau. (phần 3)
Kết cấu tác phẩm
Trường ca Hòn vọng phu gồm có ba phần. Mỗi phần có thể được hát như một bài riêng:
Hòn vọng phu 1: Đoàn người ra đi (Hương Mộc Lan xuất bản lần đầu vào năm 1946)
Hòn vọng phu 2: Ai xuôi vạn lý (Hương Nam xuất bản vào tháng 10 năm 1946)
Hòn vọng phu 3: Người chinh phu về (Dân tộc xuất bản lần đầu vào năm 1949)
Vẻ đẹp[2]
Hòn vọng phu đã thể hiện sự kết hợp khéo léo, hơp lý giữa thang âm 7 bậc của phương Tây và thang âm ngũ cung của châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, thể hiện một sự tìm tòi kết hợp âm hưởng dân gian-dân tộc với cách tạo cấu trúc, phát triển tư duy âm nhạc phổ biến trong âm nhạc bác học của châu Âu.
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2n_v%E1%BB%8Dng_phu_(b%C3%A0i_h%C3%A1t)